Kinh Dịch là bộ sách kinh điển của Trung Hoa. Nó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Á Đông cổ đại. Tư tưởng triết học cơ bản dự...
Kinh Dịch là bộ sách kinh điển của Trung Hoa. Nó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Á Đông cổ đại. Tư tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi (chuyển dịch). Ban đầu, Kinh Dịch được coi là một hệ thống để bói toán, nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi các nhà triết học Trung Hoa. Cho tới nay, Kinh Dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Á Đông và được coi là một tinh hoa của cổ học Trung Hoa. Nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh…
Kinh (經 jīng) có nghĩa là một tác phẩm kinh điển, trong tiếng Hoa có gốc gác từ “quy tắc” hay “bền vững”, hàm ý rằng tác phẩm này miêu tả những quy luật tạo hóa không thay đổi theo thời gian.
Dịch (易 yì) có nghĩa là “thay đổi” của những thành phần bên trong một vật thể nào đó mà trở nên khác đi.
Khái niệm ẩn chứa sau tiêu đề này là rất sâu sắc. Nó có ba ý nghĩa cơ bản có quan hệ tương hỗ như sau:
- Bất dịch – bản chất của thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là luôn thay đổi, tuy nhiên trong những thay đổi đó luôn luôn tồn tại nguyên lý bền vững – quy luật trung tâm – là không đổi theo không gian và thời gian.
- Biến dịch – hành vi của mọi thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là liên tục thay đổi. Nhận thức được điều này con người có thể hiểu được tầm quan trọng của sự mềm dẻo trong cuộc sống và có thể trau dồi những giá trị đích thực để có thể xử sự trong những tình huống khác nhau.
- Giản dịch – thực chất của mọi thực thể. Quy luật nền tảng của mọi thực thể trong vũ trụ là hoàn toàn rõ ràng và đơn giản, không cần biết là biểu hiện của nó là khó hiểu hay phức tạp.
Truyền thuyết nói rằng Kinh Dịch bắt đầu ra đời từ vua Phục Hy, lúc ấy Hoàng Hà có con long mã hiện hình lưng nó có khoáy thành đám, từ một đến chín, vua Phục Hy coi những khoáy đó, mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ, mới đem lẽ đó vạch ra thành nét.
Đầu tiên vạch một nét liền (tức là vạch lẻ), để làm phù hiệu (tượng trưng) cho khí Dương, và một nét đứt (tức là vạch chẵn), để làm phù hiệu (tượng trưng) cho khí Âm. Hai cái vạch đó gọi là hai Nghi. Trên mỗi nghi thêm một nét nữa, thành ra bốn cái hai vạch, gọi là bốn Tượng. Trên mỗi Tượng lại vạch thêm một vạch nữa, thành ra tám cái ba vạch, gọi là tám Quẻ (tức là quẻ đơn). Sau cùng Phục Hy lại đem quẻ nọ chồng lên quẻ kia, thành ra sáu mươi tư cái sáu vạch, gọi là sáu mươi tư Quẻ (tức là quẻ kép). Từ thời Phục Hy đến cuối nhà Thương Kinh Dịch vẫn chỉ là những vạch liền, vạch đứt, chưa có tên hiệu chữ nghĩa gì cả.
Sang tới đầu nhà Chu, Chu Văn Vương mới đem những Quẻ của Phục Hy mà đặt từng tên và diễn thêm lời ở dưới mỗi quẻ để nói về sự lành dữ của cả quẻ, như chữ nguyên hanh lợi tẫn mã chi trinh ở quẻ Khôn v.v… Lời đó gọi là Lời Quẻ (quái từ), hay lời thoán (thoán từ).
Rồi sau đó Chu Công tức Cơ Đán (con trai thứ Văn Vương), lại theo số vạch của các quẻ mà chia mỗi quẻ ra làm sáu phần, mỗi phần gọi là một Hào, và dưới mỗi hào đều có thêm một hoặc vài câu, để nói về sự lành dữ của từng hào, như câu Sơ Cửu: tiềm long vật dụng hay câu Cửu Nhị: hiện long tại điền trong quẻ Kiền và câu Sơ Lục lý sương kiên băng chí hay câu Lục Tam: Hàm chương khả trinhtrong quẻ Khôn…Lời đó gọi là lời hào (Hào từ) vì phần nhiều nó căn cứ vào hình tượng của các hào, cho nên nó còn gọi là (Lời tượng).
Tiếp đến Khổng Tử lại soạn ra sáu thứ nữa, là Thoán truyện, Tượng truyện, Văn ngôn, Hệ từ truyện, Thuyết quái, Tự quái, Tạp quái. Thoán truyện có hai thiên: Thượng Thoán và Hạ Thoán; Tượng truyện có hai thiên: Thượng và Hạ Tượng; Hệ từ cũng có hai thiên: Thượng Hệ và Hạ Hệ; tất cả mười thiên, thường gọi là Thập dực (mười cánh). Sáu thứ đó tuy đều tán cho ý nghĩa Kinh Dịch rộng thêm, nhưng mỗi thứ có một tính cách.
Lưỡng Nghi là khởi nguồn của Kinh Dịch, đó là Âm và Dương, Dương được ghi lại bằng vạch liền (-) còn Âm vạch cách đoạn (–)
Tượng là dùng hai Nghi chồng lên nhau và đảo chỗ, vì thế được Tứ Tượng. Tứ tượng là 4 tượng, bao gồm: thái dương, thiếu dương, thái âm và thiếu âm.
Gương bát quái
Tứ Tượng chỉ có hai vạch chồng lên nhau, người ta chồng tiếp một vạch nữa lên (là có ba vạch). Được tám hình thái khác nhau gọi là Bát Quái (quẻ đơn) {xem chi tiết phần sau}
Quẻ kép
Quẻ kép (còn gọi là trùng quái) là đem những quẻ đơn chồng lên nhau, được sáu mươi tư hình thái khác nhau, đó là Sáu mươi tư quẻ.{xem chi tiết phần sau}
Nếu có thể người ta chồng hai quẻ kép lên nhau sẽ được 64 x 64 quẻ nữa. Nhưng có lẽ trí tuệ của con người chưa thể hiểu được những Quẻ đó, vì vậy tạm dừng lại ở 64 quẻ kép. Tiêu Diên Thọ có sáng kiến chồng 64 thẻ lên nhau tạo thành 64×64=4096 quẻ (mỗi quẻ mới gồm 12 hào), như thế quá nhiều nên ít ai theo.
Các biểu tượng của Kinh Dịch là nằm trong tập hợp của 64 tổ hợp của các đường trừu tượng gọi là quẻ (卦 guà). Mỗi quẻ bao gồm 6 hào (爻 yáo) được biểu diễn dưới dạng các đoạn thẳng nằm ngang; mỗi hào này có thể là Dương (đường liền nét) hay Âm (đường đứt nét bao gồm hai đoạn thẳng cách nhau một khe nhỏ). Với sáu đoạn thẳng này được đặt lên nhau từ dưới lên trên trong mỗi quẻ suy ra có 26 hay 64 tổ hợp của hào và như vậy có 64 quẻ.
Mỗi quẻ được cho là tổ hợp của hai tập hợp con, mỗi tập con gồm ba đường gọi là quái (卦 guà). Như vậy có 23 hay 8 quái khác nhau.
Mỗi quẻ đại diện cho một trạng thái, tiến trình hay sự thay đổi có thể xảy ra. Khi quẻ được gieo bằng một trong những phương thức của bói toán bằng Kinh Dịch thì mỗi một đường (hào) có thể là tĩnh hoặc động. Hào động có thể có sự thay đổi từ Âm sang Dương hay ngược lại để tạo thành một quẻ khác, việc giải nghĩa của quẻ được gieo ban đầu dựa trên sự cân nhắc và xem xét các thay đổi đó.
Các phương pháp truyền thống để gieo quẻ sử dụng số ngẫu nhiên để sinh ra quẻ, vì thế 64 quẻ này là không đồng nhất xét về xác suất.
Có một số hình thức khác nhau sắp xếp quái và quẻ. Bát quái (八卦 bā gùa) là sự sắp xếp của các quái, thông thường là trên gương hoặc đĩa. Truyền thuyết cho rằng Phục Hi đã tìm thấy bát quái được viết trên mai rùa (Xem Hà Đồ). Kiểu sắp xếp tám quái dựa trên suy diễn này gọi là Tiên thiên bát quái.
Thành phần hợp thành của quẻ
Vạch liền là Dương, tượng của mặt trời. Vạch đứt là Âm, tượng của mặt trăng. Mỗi một vạch (liền hoặc đứt) là một hào. Các thành phần này được biểu diễn trong một biểu tượng hình tròn chung (☯), được biết đến như Thái Cực đồ (☯) (太極圖 taijitu), nhưng nói chung người ta gọi tắt là đồ Âm-Dương (陰陽 yin-yang), miêu tả quan hệ giữa hai trạng thái của mọi thay đổi, chuyển dịch: khi Dương đạt tới cực đỉnh thì Âm bắt đầu phát sinh và ngược lại. Thái Cực đồ cũng là nguyên lý phát sinh Âm-Dương.Vô Cực sinh Thái CựcThái Cực sinh Lưỡng NghiLưỡng Nghi sinh Tứ tượngTứ Tượng sinh Bát QuáiBát Quái sinh vô lượng
Trong đó:
Vô Cực tương đương trong Lão giáo là Vô Vi – có thể coi là hư vô.
Thái Cực có thể tạm coi như trạng thái cân bằng khi vũ trụ hình thành.
Lưỡng Nghi là hai thành phần Âm và Dương.
Tứ Tượng là Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm.
Trong danh sách sau, quái và quẻ được biểu diễn bằng cách sử dụng các quy ước thông thường trong soạn thảo văn bản theo chiều ngang từ trái qua phải, với ký hiệu ‘|’ cho Dương và ‘:’ cho Âm. Lưu ý rằng, biểu diễn trong thực tế của quái và quẻ là các đường theo chiều đứng từ thấp lên cao (có nghĩa là để hình dung ra quái hay quẻ trong thực tế, ta cần phải quay đoạn văn bản biểu diễn chúng ngược chiều kim đồng hồ một góc 90°).
Có tám quái hay bát quái (八卦 bāguà) tạo thành do tổ hợp chập ba của Âm và/hoặc Dương:
Số | Quái | Tên | Bản chất tự nhiên | Ngũ hành | Độ số theo Hà đồ, Lạc thư | Hướng theo Tiên Thiên/Hậu Thiên Bát Quái |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | ||| (☰) | Càn (乾 qián) | Trời (天) | dương kim | 6 | nam/tây bắc |
2 | ||: (☱) | Đoài (兌 duì) | Đầm (hồ) (澤) | âm kim | 4 | đông nam/tây |
3 | |:| (☲) | Ly (離 lý) | Hỏa (lửa) (火) | âm hỏa | 7 | đông/nam |
4 | |:: (☳) | Chấn (震 zhèn) | Sấm (雷) | dương mộc | 9 | đông bắc/đông |
5 | :|| (☴) | Tốn (巽 xùn) | Gió (風) | âm mộc | 3 | tây nam/đông nam |
6 | :|: (☵) | Khảm (坎 kǎn) | Nước (水) | dương thủy | 1 | tây/bắc |
7 | ::| (☶) | Cấn (艮 gèn) | Núi (山) | dương thổ | 8 | tây bắc/đông bắc |
8 | ::: (☷) | Khôn (坤 kūn) | Đất (地) | âm thổ | 2 | bắc/tây nam |
Bát quái nạp vào Hà Đồ và 8 đường kinh nạp vào Hà Đồ theo tính chất ngũ hành tương ứng được minh họa như sau:
Biểu đồ các quái
Ngoại quáiNội quái | |||Càn Trời | |::Chấn Sấm | :|:Khảm Nước | ::|Cấn Núi | :::Khôn Đất | :||Tốn Gió | |:|Ly Hỏa | ||:Đoài Đầm |
|||Càn | 1 | 34 | 5 | 26 | 11 | 9 | 14 | 43 |
|::Chấn | 25 | 51 | 3 | 27 | 24 | 42 | 21 | 17 |
:|:Khảm | 6 | 40 | 29 | 4 | 7 | 59 | 64 | 47 |
::|Cấn | 33 | 62 | 39 | 52 | 15 | 53 | 56 | 31 |
:::Khôn | 12 | 16 | 8 | 23 | 2 | 20 | 35 | 45 |
:||Tốn | 44 | 32 | 48 | 18 | 46 | 57 | 50 | 28 |
|:|Ly | 13 | 55 | 63 | 22 | 36 | 37 | 30 | 49 |
||:Đoài | 10 | 54 | 60 | 41 | 19 | 61 | 38 | 58 |
64 quẻ
Dưới đây là sáu mươi tư quẻ của Kinh Dịch.
Các quẻ từ số 01 đến số 30 được gọi là Thượng Kinh, bắt đầu với hai quẻ Càn (trời), Khôn (đất) nên phần này đôi khi gọi là “đạo của Trời Đất”.
Các quẻ từ số 31 đến số 64 được gọi là Hạ Kinh, bắt đầu với hai quẻ Hàm (tình yêu), Hằng (vợ chồng) nên phần này đôi khi gọi là “đạo của vợ chồng”.
Tên gọi các quẻ: tên gọi của mỗi quẻ gồm 3 phần, bắt đầu với tên của các quẻ đơn tạo nên nó, đầu tiên là ngoại quái rồi đến nội quái, phần cuối của tên chỉ ý nghĩa của quẻ. Ví dụ quẻ Thủy Hỏa Ký Tế:
- thủy chỉ ngoại quái: Khảm (nước);
- hỏa chỉ nội quái: Li (lửa);
- ký tế chỉ ý nghĩa của quẻ: đã xong, đã hoàn thành, đã qua sông;
ví dụ khác là quẻ Địa Sơn Khiêm:
- địa chỉ ngoại quái: Khôn (đất);
- sơn chỉ nội quái: Cấn (núi);
- khiêm chỉ ý nghĩa của quẻ: khiêm nhường.
- |||||| Thuần Càn (乾 qián)
- :::::: Thuần Khôn (坤 kūn)
- |:::|: Thủy Lôi Truân (屯 chún)
- :|:::| Sơn Thủy Mông (蒙 méng)
- |||:|: Thủy Thiên Nhu (需 xū)
- :|:||| Thiên Thủy Tụng (訟 sòng)
- :|:::: Địa Thủy Sư (師 shī)
- ::::|: Thủy Địa Tỷ (比 bǐ)
- |||:|| Phong Thiên Tiểu Súc (小畜 xiǎo chù)
- ||:||| Thiên Trạch Lý (履 lǚ)
- |||::: Địa Thiên Thái (泰 tài)
- :::||| Thiên Địa Bĩ (否 pǐ)
- |:|||| Thiên Hỏa Đồng Nhân (同人 tóng rén)
- ||||:| Hỏa Thiên Đại Hữu (大有 dà yǒu)
- ::|::: Địa Sơn Khiêm (謙 qiān)
- :::|:: Lôi Địa Dự (豫 yù)
- |::||: Trạch Lôi Tùy (隨 suí)
- :||::| Sơn Phong Cổ (蠱 gǔ)
- ||:::: Địa Trạch Lâm (臨 lín)
- ::::|| Phong Địa Quan (觀 guān)
- |::|:| Hỏa Lôi Phệ Hạp (噬嗑 shì kè)
- |:|::| Sơn Hỏa Bí (賁 bì)
- :::::| Sơn Địa Bác (剝 bō)
- |::::: Địa Lôi Phục (復 fù)
- |::||| Thiên Lôi Vô Vọng (無妄 wú wàng)
- |||::| Sơn Thiên Đại Súc (大畜 dà chù)
- |::::| Sơn Lôi Di (頤 yí)
- :||||: Trạch Phong Đại Quá (大過 dà guò)
- :|::|: Thuần Khảm (坎 kǎn)
- |:||:| Thuần Ly (離 lý)
- ::|||: Trạch Sơn Hàm (咸 xián)
- :|||:: Lôi Phong Hằng (恆 héng)
- ::|||| Thiên Sơn Độn (遯 dùn)
- ||||:: Lôi Thiên Đại Tráng (大壯 dà zhuàng)
- :::|:| Hỏa Địa Tấn (晉 jìn)
- |:|::: Địa Hỏa Minh Di (明夷 míng yí)
- |:|:|| Phong Hỏa Gia Nhân (家人 jiā rén)
- ||:|:| Hỏa Trạch Khuê (睽 kuí)
- ::|:|: Thủy Sơn Kiển (蹇 jiǎn)
- :|:|:: Lôi Thủy Giải (解 xiè)
- ||:::| Sơn Trạch Tổn (損 sǔn)
- |:::|| Phong Lôi Ích (益 yì)
- |||||: Trạch Thiên Quải (夬 guài)
- :||||| Thiên Phong Cấu (姤 gòu)
- :::||: Trạch Địa Tụy (萃 cuì)
- :||::: Địa Phong Thăng (升 shēng)
- :|:||: Trạch Thủy Khốn (困 kùn)
- :||:|: Thủy Phong Tỉnh (井 jǐng)
- |:|||: Trạch Hỏa Cách (革 gé)
- :|||:| Hỏa Phong Đỉnh (鼎 dǐng)
- |::|:: Thuần Chấn (震 zhèn)
- ::|::| Thuần Cấn (艮 gèn)
- ::|:|| Phong Sơn Tiệm (漸 jiàn)
- ||:|:: Lôi Trạch Quy Muội (歸妹 guī mèi)
- |:||:: Lôi Hỏa Phong (豐 fēng)
- ::||:| Hỏa Sơn Lữ (旅 lǚ)
- :||:|| Thuần Tốn (巽 xùn)
- ||:||: Thuần Đoài (兌 duì)
- :|::|| Phong Thủy Hoán (渙 huàn)
- ||::|: Thủy Trạch Tiết (節 jié)
- ||::|| Phong Trạch Trung Phu (中孚 zhōng fú)
- ::||:: Lôi Sơn Tiểu Quá (小過 xiǎo guò)
- |:|:|: Thủy Hỏa Ký Tế (既濟 jì jì)
- :|:|:| Hỏa Thủy Vị Tế (未濟 wèi jì)
Cốt lõi của Kinh Dịch là gì?
Cốt lõi của Kinh Dịch là thuyết “Tam dịch” nổi tiếng, tức là: Giản dịch, biến dịch và bất dịch.
Giản dịch: là chỉ rằng, sự vật trên thế giới có phức tạp, huyền bí thế nào đi nữa, một khi trí tuệ nhân loại đạt đến được, thì có thể chuyển đổi chúng thành vấn đề mà mọi người dễ lý giải và có khả năng xử lý được.
Biến dịch: là chỉ rằng, vạn sự vạn vật trên thế giới mỗi giờ mỗi khắc đều đang biến hóa, phát triển, không có vật gì là bất biến. Nếu rời xa sự biến hóa này, vũ trụ vạn vật khó mà hình thành được.
Bất dịch: là chỉ rằng, dưới tiền đề vạn vật trong vũ trụ đều biến đổi, vẫn còn có thứ duy nhất bất biến tồn tại, chính là cái có thể biến ra vạn vật là bất biến. Tức là nói quy luật vạn vật đều biến đổi là vĩnh viễn bất biến.
Cái gọi là Bất dịch, chính là cân bằng cơ bản. Biến dịch tức là phát triển biến hóa, tức là không cân bằng. Giản dịch tức là tất cả các sự vật phức tạp trên thế giới có thể dùng những phù hiệu đơn giản để khái quát. Phát triển biến hóa, không cân bằng là tuyệt đối, là vĩnh hằng. Cân bằng là tương đối, là tạm thời.
Kinh Dịch có tác dụng gì?
Kinh Dịch là bảo điển giải khai mật mã vũ trụ, hạnh phúc nhân sinh.
Kinh Dịch là triết lý và kinh nghiệm hàng ngàn năm của văn minh Á Đông, nó bao la vạn tượng, phạm vi liên quan đến rất rộng, hầu như tất cả tri thức đều bao gồm trong đó, là bộ bách khoa toàn thư. Nó trao cho nhân loại 3 chiếc chìa khóa vàng.
Chìa khóa vàng thứ 1 là “âm dương”, bất kỳ sự việc nào trên thế giới, cân bằng âm dương đạt được hài hòa, hài hòa thì có thể phát triển, tiến bộ.
Chìa khóa vàng thứ 2 là “ngũ hành”, vạn sự vạn vật đều không rời xa cái bóng của ngũ hành, mệnh lý học và vị lý học của phong thủy đều từ nó mà sinh ra.
Chìa khóa vàng thứ 3 là “bát quái”, bát quái phát triển thành “Văn Vương 64 quẻ”. Nó cho chúng ta biết 64 mật mã của vũ trụ, đại thiên thế giới cũng không ngoài mật mã này.
Nguồn gốc Kinh dịch đến từ đâu?
Đây là câu hỏi mà rất nhiều học giả đã đưa ra khi nghiên cứu Kinh Dịch, rất nhiều công trình nghiên cứu đã viết về vấn đề này. Mỗi công trình đều cố đưa ra những luận cứ, diễn giải thuyết phục để chứng minh rằng Kinh Dịch là thuộc về quốc gia nào?
Nhưng sự thật không đơn giản như vậy. Theo sự hiểu biết của người viết, Kinh Dịch bắt đầu xuất hiện trước tất cả các nền văn minh trên Trái Đất này.
Nó là một di sản vỡ vụn của một nền văn minh cao cấp cổ xưa, và rải rác khắp nơi trên thế giới còn sót lại sau một thảm họa hủy diệt. Người Maya, người Ai Cập cổ đại, người Khmer, Ấn Độ cổ cũng đều có những phần tri thức tương tự như Kinh Dịch.
Người Trung Hoa và Việt Nam may mắn có được nhiều mảnh vụn hơn và may mắn nhất là Trung Hoa đã sinh ra một Khổng Tử và Chu Công để san định và chú giải Kinh Dịch có hệ thống, nên người ta mới luôn nghĩ rằng Trung Hoa là cái nôi của Kinh Dịch.
Tư liệu lịch sử
Từ hai nghìn năm trước khi chúng ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đã sáng tạo Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng cơ bản cho văn hoá Việt Nam, nhờ thế trong suốt một nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa, chúng ta vẫn đứng vững không bị đồng hoá như các dân tộc ở Hoa Nam.
Người Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đã tiếp thu được Kinh Dịch của Việt Nam và họ cũng đã dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn hoá của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, sau một nghìn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và những gì ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều tự nhận mình học của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy.
Người Trung Hoa rất trọng hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là xứ man di.
Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng.
Đánh giá từ các nhà nghiên cứu
Trong vòng 60 năm trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trực giác thấy rằng Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn.
Tuy nhiên, theo Wikipedia có viết tổ của đại tộc Bách Việt chính là Phục Hy. Vậy nên sự tồn tại và xuất hiện ở Việt Nam là điều dễ hiểu.
Ngày nay chúng ta có đầy đủ chứng lý để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể còn lưu dấu trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch.
Kinh Dịch có phải dùng để bói mệnh, xem phong thủy?
Kinh Dịch thật sự chính là một cỗ máy khổng lồ mô phỏng lại tất cả các dạng thức hoạt động và sự sống của vũ trụ, thời gian và không gian. Ví dụ gần nhất chính là các siêu máy tính lượng tử chuyên dùng để nghiên cứu và tính toán sự giãn nở của hệ ngân hà chúng ta.
Để có thể mô phỏng thì nó phải có cơ chế tính toán, vì thế trong Kinh Dịch có một phần có thể coi là “toán học”, hay chính xác hơn là “toán học vũ trụ” – một cơ chế tính toán hoàn hảo có thể tính hết mọi thứ từ quá khứ đến tương lai. Nhỏ thì có thể tính được số mệnh một người, lớn thì có thể thấy được vận mệnh của một quốc gia từ vài chục cho đến hàng ngàn năm sau. Biểu hiện đơn giản nhất của nó chỉ có 64 quẻ, nhưng lại bao hàm từ sinh mệnh của con người, vạn vật cho đến cả thiên thể vũ trụ.
Vì Kinh Dịch to lớn như vậy, nên người trầm mê trong tiểu Đạo thế gian thì tìm thấy trong Dịch phương pháp bói mệnh, xem phong thủy, trừ tà. Người đức cao trí lớn muốn cải biến xã hội thì thấy trong đó có binh pháp, đạo trị quốc… Ai cũng cho rằng điều mình hiểu là đúng, vì thế từ cổ chí kim sách bình giải Kinh Dịch và ứng dụng Kinh Dịch nhiều vô số. Chính vì nhân tâm phức tạp nên mới làm cho lời dạy của Thánh nhân trở nên tạp loạn, làm mất đi giá trị chân chính của Kinh Dịch, dẫn đến cái họa cho người đời.
Các sách kinh dịch nổi bật:
- Kinh dịch trọn bộ – Ngô Tất Tố
- Chu Dịch Vạn Xuân – Người Mới Và Kỷ Nguyên Mới
- Ứng Dụng 64 Quẻ Kinh Dịch Trong Dự Báo, Dự Đoán
- Sổ Tay Kinh Dịch
- Dịch Kinh Tường Giải (Di Cảo): Quyển Thượng
- Kinh Dịch Diễn Giải Và Diễn Ca
- Nhân Mệnh Trong Kinh Dịch
- Bí Ẩn Trên Bàn Tay
- Dịch Lý Và Con Người
Thuật Số Chu Dịch
COMMENTS